Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam: Những phát hiện chính từ Báo cáo năm 2024

Regiissuites

20/05/2025

Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh Việt Nam năm 2024 (“Báo cáo PCI 2024”) cung cấp những hiểu biết toàn diện về bối cảnh kinh doanh đang thay đổi trên khắp Việt Nam, nêu bật cách những thay đổi trong quản trị kinh tế đang tác động đến cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) hợp tác với Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), báo cáo PCI dựa trên dữ liệu khảo sát mở rộng từ hàng nghìn doanh nghiệp để đánh giá các lĩnh vực quan trọng trong quản trị kinh tế của tỉnh.

Báo cáo năm nay cho thấy những cải thiện đáng kể về năng lực cạnh tranh của tỉnh, với những tiến bộ đáng chú ý về tính minh bạch, chất lượng lao động và thủ tục gia nhập thị trường. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức, bao gồm chi phí không chính thức tăng, gánh nặng hành chính dai dẳng và khó khăn trong tiếp cận đất đai. Ngoài ra, báo cáo nhấn mạnh sự chuyển dịch ngày càng tăng sang các ngành công nghiệp có giá trị cao hơn, doanh số bán hàng trong nước tăng và sự lạc quan hơn trong số các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) bất chấp những bất ổn kinh tế toàn cầu.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích những phát hiện chính của báo cáo PCI năm 2024, xem xét các tỉnh có hiệu suất cao nhất, xu hướng kinh doanh mới nổi và những thách thức dai dẳng tiếp tục định hình môi trường kinh doanh của Việt Nam.

Tìm hiểu thêm về Báo cáo PCI 2023: Việt Nam công bố Báo cáo PCI-PGI 2023: Các kết quả chính

Những phát hiện chính

Phát hiện chính của báo cáo là sự cải thiện bền vững trong quản trị kinh tế của tỉnh, với điểm PCI trung bình của tỉnh tăng lên 67,67 điểm – tăng hơn một điểm so với năm 2023 – và điểm PCI cốt lõi đạt 68,18 điểm, đánh dấu xu hướng tăng ổn định kể từ năm 2016.

Điểm số PCI xếp hạng 63 tỉnh thành của Việt Nam dựa trên các lĩnh vực quản trị kinh tế có ảnh hưởng đến sự phát triển của khu vực tư nhân. Điểm số chỉ số chung dựa trên mười chỉ số phụ đánh giá các tiêu chí sau:

  • Chi phí đầu vào thấp cho doanh nghiệp khởi nghiệp.
  • Dễ dàng tiếp cận đất đai và an ninh của cơ sở kinh doanh.
  • Môi trường kinh doanh minh bạch và thông tin kinh doanh công bằng.
  • Giảm thiểu chi phí không chính thức cho doanh nghiệp.
  • Hạn chế các thủ tục hành chính và thanh tra.
  • Chính sách ít thiên vị đối với các công ty nhà nước, nước ngoài hoặc các công ty có liên quan.
  • Lãnh đạo tỉnh chủ động và sáng tạo trong việc giải quyết các thách thức kinh doanh.
  • Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp chất lượng cao.
  • Chính sách đào tạo lao động hiệu quả.
  • Thủ tục pháp lý công bằng và hiệu quả để giải quyết tranh chấp và duy trì luật pháp và trật tự.

Năm 2024, tỉnh có điểm PCI cao nhất là thành phố Hải Phòng, một trung tâm sản xuất và hậu cần lớn ở phía bắc. Đây là lần đầu tiên thành phố này đứng đầu bảng xếp hạng, đạt số điểm là 74,84. Theo báo cáo, thành công của thành phố này bắt nguồn từ những cải thiện đồng bộ về môi trường đầu tư và kinh doanh, bao gồm tinh giản thủ tục hành chính, thúc đẩy đầu tư trực tiếp, cải cách hành chính và phát triển các khu công nghiệp. Hải Phòng cải thiện ở bảy trong số 10 tiêu chí quản trị, cụ thể là gia nhập thị trường, tiếp cận đất đai, minh bạch, chi phí không chính thức, cạnh tranh lành mạnh, tính chủ động của chính quyền địa phương và thể chế pháp lý và trật tự.

Tỉnh ven biển Đông Bắc Quảng Ninh giành vị trí thứ hai với số điểm là 73,20, tăng 1,95 điểm so với năm 2023. Quảng Ninh đã cải thiện ở năm trong số mười lĩnh vực quản trị PCI vào năm 2024, đánh dấu năm thứ mười hai liên tiếp nằm trong năm tỉnh, thành phố có năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cao nhất.

Top 10 tỉnh, thành phố có điểm PCI cao nhất năm 2024

  1. Hải Phòng – 74,84
  2. Quảng Ninh – 73,20
  3. Long An – 72,64
  4. Bắc Giang – 71,24
  5. BRVT – 71,17
  6. Thành phố Huế – 71,13
  7. Hậu Giang – 70,54
  8. Phú Thọ – 70,35
  9. Đồng Tháp – 70,35
  10. Hưng Yên – 70,18

Cả 63 tỉnh, thành phố đều có sự thay đổi tích cực về điểm số PCI trung bình, trong đó Bắc Giang dẫn đầu về cải thiện PCI cốt lõi, tiếp theo là Long An, Thanh Hóa, Lai Châu và Đắk Nông, nhấn mạnh sự chuyển mình thành điểm đến đầu tư ngày càng hấp dẫn.

Top 10 tỉnh, thành phố có điểm PCI cải thiện* năm 2024:

  1. Bắc Giang
  2. Long An
  3. Thanh Hóa
  4. Lai Châu
  5. Đăk Nông
  6. Quảng Ninh
  7. Bình Phước
  8. Tiền Giang
  9. Điện Biên
  10. Hải Dương

*Thay đổi trung bình hàng năm

Những cải thiện quan trọng đối với môi trường kinh doanh tại Việt Nam

Cải thiện chất lượng lao động

Báo cáo cho thấy vào năm 2024, có sự gia tăng đáng kể trong số các doanh nghiệp đánh giá tích cực về giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp tại tỉnh của họ, với lần lượt 68% và 63% số người được hỏi bày tỏ sự hài lòng. Ngoài ra, 54% các công ty báo cáo rằng lực lượng lao động địa phương đáp ứng đầy đủ hoặc hầu hết nhu cầu việc làm của họ, tăng từ 47% vào năm 2023. Các công ty cũng báo cáo tỷ lệ thành công cao hơn trong việc tuyển dụng lao động không có kỹ năng (63%), nhân viên kỹ thuật (37%) và nhân viên quản lý (30%), phản ánh sự cải thiện chung về chất lượng và tính khả dụng của lao động.

Độ minh bạch tốt hơn

Các chỉ số minh bạch được cải thiện vào năm 2024, với các doanh nghiệp báo cáo điểm số cao hơn về khả năng tiếp cận các văn bản lập kế hoạch và pháp lý, đạt 3,11 và 3,23, mức cao nhất kể từ năm 2006. Chỉ có 31 phần trăm các công ty cho biết “kết nối” là cần thiết để có được các tài liệu của tỉnh, giảm so với mức 61 phần trăm vào năm 2021, mức thấp nhất được ghi nhận. Việc tiếp cận thông tin được cải thiện cũng góp phần nâng cao khả năng dự đoán trong việc tuân thủ các quy định, với 40 phần trăm và 39 phần trăm các công ty ghi nhận khả năng dự đoán được cải thiện trong các thay đổi pháp lý ở trung ương và địa phương. Báo cáo lưu ý rằng những thành quả này có thể được hỗ trợ bởi các sáng kiến ​​quản trị điện tử đang diễn ra của chính phủ như Chương trình chuyển đổi số quốc gia.

Thủ tục gia nhập thị trường thuận lợi hơn

Các thủ tục gia nhập thị trường tiếp tục được cải thiện, với việc đăng ký doanh nghiệp hiện mất khoảng bảy ngày và sửa đổi mất sáu ngày, giảm đáng kể so với một tháng cách đây hai thập kỷ. Vào năm 2024, 93 phần trăm các công ty lưu ý về tính minh bạch trong các thủ tục đăng ký, 91 phần trăm thừa nhận hướng dẫn rõ ràng và 86 phần trăm ca ngợi chuyên môn và sự thân thiện của nhân viên. Tuy nhiên, ít hơn 50 phần trăm các công ty hài lòng với các thủ tục cấp phép kinh doanh có điều kiện, cho thấy cần phải cải cách thêm nữa để hợp lý hóa các quy trình gia nhập thị trường.

Các thể chế pháp lý và trật tự công cộng

Chỉ số phụ về luật pháp và an ninh, thước đo lòng tin của doanh nghiệp tư nhân vào hệ thống tòa án tỉnh và các quy trình tư pháp, vẫn mạnh mẽ vào năm 2024, với 91 phần trăm các công ty ở tỉnh trung bình bày tỏ sự tin tưởng vào khả năng của hệ thống pháp luật trong việc bảo vệ các vấn đề như bản quyền và thực thi hợp đồng. Ngoài ra, 93 phần trăm các doanh nghiệp cho biết tòa án tỉnh xử lý các vụ án kinh tế một cách công bằng, 88 phần trăm báo cáo giải quyết nhanh chóng và 89 phần trăm thừa nhận hiệu quả của trợ giúp pháp lý. Hơn nữa, 83 phần trăm các công ty mô tả điều kiện an ninh địa phương là tốt, tăng từ mức 77 đến 78 phần trăm trong ba năm trước, cho thấy sự ổn định liên tục trong môi trường pháp lý và an ninh.

Sự lạc quan trong kinh doanh

Sự lạc quan trong kinh doanh được cải thiện vào năm 2024, với 33% doanh nghiệp có kế hoạch mở rộng trong vòng hai năm, tăng từ 27% vào năm 2023, mặc dù vẫn thấp hơn mức 50% được ghi nhận trước COVID. Các doanh nghiệp vừa và lớn thể hiện sự lạc quan cao nhất, với 46% công ty có quy mô từ 50 tỷ đồng đến 200 tỷ đồng (1,9 triệu đô la Mỹ đến 7,7 triệu đô la Mỹ) và 56% doanh nghiệp trên 200 tỷ đồng có kế hoạch mở rộng, tăng từ 38% và 39% vào năm 2023. Trong khi đó, 27% doanh nghiệp siêu nhỏ (những doanh nghiệp có quy mô dưới 3 tỷ đồng (115.696 đô la Mỹ) cho biết họ có ý định mở rộng, tăng 5% so với năm 2023.

Các ngành công nghiệp hàng đầu được lên kế hoạch mở rộng là:

  1. Hóa chất (47 phần trăm)
  2. Nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản (43 phần trăm)
  3. Chế biến thực phẩm (40 phần trăm)
  4. Sản phẩm kim loại (39 phần trăm)
  5. Y tế-giáo dục-hành chính (38 phần trăm)
  6. Sản phẩm gỗ (37 phần trăm)
  7. Trang phục (37 phần trăm)
  8. Công nghệ thông tin (35 phần trăm)
  9. Bán buôn, bán lẻ và sửa chữa xe máy (34 phần trăm)
  10. Xây dựng (33 phần trăm)

Theo báo cáo, sự gia tăng trong kế hoạch mở rộng của các ngành này chủ yếu được thúc đẩy bởi nhu cầu trong nước ngày càng tăng, đầu tư nước ngoài và vị thế chiến lược trong chuỗi cung ứng toàn cầu, cũng như sự hỗ trợ của chính phủ, chi phí lao động cạnh tranh và các hiệp định thương mại có lợi.

Các tỉnh có ý định mở rộng cao nhất là Bạc Liêu (53%), Hưng Yên (50%), Bắc Giang (47%), Bà Rịa-Vũng Tàu (46%) và Hòa Bình (46%), phản ánh mục tiêu phát triển công nghiệp và nỗ lực thu hút đầu tư chiến lược.

Điều quan trọng cần lưu ý là báo cáo khuyến cáo nên diễn giải thận trọng những phát hiện này, vì những thay đổi trong chính sách thuế quan của Hoa Kỳ và những diễn biến toàn cầu không lường trước khác kể từ khi kết thúc khảo sát vào tháng 12 năm 2024 có thể tác động đến các kế hoạch mở rộng kinh doanh, đặc biệt là trong các ngành và tỉnh thành dựa trên xuất khẩu.

Những thách thức mà các công ty tại Việt Nam phải đối mặt

Các công ty tại Việt Nam tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức ảnh hưởng đến hoạt động và triển vọng tăng trưởng của họ. Những trở ngại này bao gồm tiếp cận tài chính, khó khăn trong việc thu hút khách hàng, suy thoái thị trường, vấn đề tiếp cận đất đai và sự trở lại của các khoản phí không chính thức. Mặc dù đã đạt được một số tiến bộ, chẳng hạn như việc áp dụng các quy trình hành chính kỹ thuật số, các vấn đề dai dẳng như tình trạng quan liêu kém hiệu quả và chi phí không chính thức ngày càng tăng vẫn là những rào cản đáng kể đối với các doanh nghiệp.

Năm trở ngại hàng đầu mà các doanh nghiệp báo cáo là tiếp cận ngân hàng hoặc tín dụng (54 phần trăm), tìm kiếm khách hàng (49 phần trăm), thị trường suy thoái (38 phần trăm), tìm kiếm đối tác kinh doanh (20 phần trăm) và tìm kiếm nhân sự phù hợp (20 phần trăm).

Giảm tính chủ động của chính quyền tỉnh

Tính chủ động của các quan chức chính quyền địa phương dường như đang suy giảm, với điểm chủ động trung bình năm 2024 giảm xuống còn 6,29 từ mức 6,68 năm 2023. Một tỷ lệ nhỏ doanh nghiệp báo cáo rằng chính quyền tỉnh linh hoạt và hỗ trợ trong khuôn khổ pháp lý để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, giảm từ 86% năm 2021 xuống chỉ còn 77% năm 2024.

Hơn nữa, ít doanh nghiệp hơn đáng kể cho rằng Ủy ban nhân dân tỉnh, cơ quan hành pháp địa phương của chính quyền, năng động và sáng tạo trong việc giải quyết các vấn đề mới so với năm 2023, trong khi nhiều doanh nghiệp lưu ý rằng phản ứng của chính quyền tỉnh đối với các chính sách hoặc văn bản trung ương không rõ ràng là quá chậm hoặc thụ động. Cuối cùng, có sự sụt giảm đáng kể trong tỷ lệ các công ty cho rằng thái độ của chính quyền tỉnh đối với khu vực tư nhân là tích cực – 53 phần trăm vào năm 2024 so với 64 phần trăm vào năm 2021.

Để giải quyết tình trạng suy giảm lòng tin đối với chính quyền tỉnh, báo cáo kêu gọi họ hành động theo chỉ thị của Tổng Bí thư Tô Lâm nhằm hỗ trợ tăng trưởng khu vực tư nhân.

Chất lượng giải quyết thủ tục hành chính chậm

Việc giải quyết các thủ tục hành chính tại Việt Nam đã có dấu hiệu chậm lại vào năm 2024, thể hiện qua sự suy giảm của chỉ số phụ về chi phí thời gian, giảm xuống mức điểm trung bình là 7,44, giảm so với năm 2023. Nhiều doanh nghiệp báo cáo đã dành hơn 10 phần trăm thời gian của họ để hiểu các quy định của nhà nước hơn so với năm 2022 và 2023, và ít doanh nghiệp hơn đã trải qua các quy trình hành chính ngắn hơn so với yêu cầu của các quy định. Ngoài ra, gánh nặng thanh tra đã tăng lên, với 22 phần trăm doanh nghiệp báo cáo nội dung chồng chéo trong các cuộc thanh tra vào năm 2024, tăng từ chỉ 8,5 phần trăm vào năm 2023.

Bất chấp những trở ngại này, vẫn có những diễn biến tích cực, chẳng hạn như giảm số lượng doanh nghiệp bị thanh tra hơn ba lần một năm và tăng hiệu quả của các thủ tục hành chính trực tuyến. Các quy trình số này đã chứng minh là tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp, phản ánh thành công của nỗ lực liên tục của chính phủ trong việc chuyển đổi số và cải cách chính phủ điện tử, dự kiến ​​sẽ tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh.

Thách thức trong tiếp cận đất đai

Tiếp cận đất đai tiếp tục là thách thức đáng kể đối với các doanh nghiệp tại Việt Nam, như được phản ánh trong cuộc khảo sát năm 2024. Điểm trung bình cho chỉ số phụ Tiếp cận đất đai giảm xuống còn 6,54, tiếp tục xu hướng giảm từ những năm trước. Tỷ lệ doanh nghiệp báo cáo không gặp trở ngại nào trong việc tiếp cận đất đai giảm xuống chỉ còn 33%, giảm so với mức 55% vào năm 2021.

Hơn nữa, 31 phần trăm doanh nghiệp cần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (LURC) gặp khó khăn trong việc xin cấp do thủ tục phức tạp và trở ngại về thủ tục hành chính, tăng từ 21 phần trăm vào năm 2021. Một số lượng lớn doanh nghiệp, gần 74 phần trăm, đã phải trì hoãn hoặc hủy bỏ các kế hoạch vì những thách thức về tiếp cận đất đai này. Các vấn đề chính được báo cáo bao gồm thời gian xử lý hồ sơ đất đai kéo dài, thủ tục mất nhiều thời gian để xác định giá trị sử dụng đất và không có hướng dẫn đầy đủ từ các viên chức.

Ngoài ra, sự chênh lệch về giá đất và sự không phù hợp với các quy định chính thức vẫn tiếp diễn. Những thách thức này trở nên trầm trọng hơn do những thay đổi trong Luật Đất đai , có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2025, với một số quan chức địa phương vẫn chưa chắc chắn về các thủ tục mới.

Sự trở lại của các chi phí không chính thức

Chi phí không chính thức đang trở thành mối lo ngại ngày càng tăng đối với các doanh nghiệp. Điểm số chỉ số phụ về chi phí không chính thức đã giảm từ 7,08 vào năm 2023 xuống còn 6,77 vào năm 2024, cho thấy sự gia tăng trở lại của các khoản thanh toán không chính thức. Trong khi chỉ có ba điểm phần trăm tăng về số lượng doanh nghiệp báo cáo phải trả chi phí không chính thức, thì lại có sự gia tăng đáng kể về tỷ lệ doanh nghiệp báo cáo phải trả chi phí không chính thức cho các cuộc thanh tra, giấy phép kinh doanh và thủ tục hành chính về đất đai.

Tuy nhiên, bất chấp những sự gia tăng này, gánh nặng tài chính của chi phí không chính thức so với doanh thu vẫn tiếp tục giảm. Chỉ có 2,3 phần trăm doanh nghiệp báo cáo chi hơn 10 phần trăm doanh thu của họ cho chi phí không chính thức, giảm đáng kể so với 13 phần trăm vào năm 2006.

Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài

Cuộc khảo sát các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) của báo cáo, được gọi là khảo sát PCI-FDI, cung cấp tổng quan toàn diện về xu hướng FDI tại Việt Nam, nêu bật sự thay đổi trong kế hoạch đầu tư, trọng tâm ngành và định hướng thị trường giữa các FIE. Khảo sát PCI-FDI dựa trên dữ liệu thu thập được từ 1.544 FIE trên 45 tỉnh, không phải tất cả các tỉnh tại Việt Nam, tập trung vào 25 tỉnh có mức tập trung FDI cao nhất.

Cuộc khảo sát cho thấy vào năm 2024, mặc dù vốn FDI mới đăng ký giảm 7,6%, tổng cộng là 19,7 tỷ đô la Mỹ, nhưng các khoản đầu tư bổ sung vào các dự án hiện có đã tăng vọt 50,4%, cho thấy sự tự tin liên tục của nhà đầu tư. Sản xuất chiếm gần 70% vốn mới đăng ký, với Singapore, Hàn Quốc và Trung Quốc là những nhà đầu tư hàng đầu. Báo cáo nhấn mạnh rằng sự ổn định kinh tế vĩ mô, các hiệp định thương mại mở rộng và sự thay đổi trong chuỗi cung ứng toàn cầu đã củng cố sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Sự lạc quan gia tăng trong các doanh nghiệp FDI

Nhìn chung, khảo sát PCI-FDI năm 2024 cho thấy sự lạc quan gia tăng trong số các FIE, với ngày càng nhiều doanh nghiệp có kế hoạch mở rộng hoạt động bất chấp tình hình kinh tế toàn cầu bất ổn đang diễn ra.

Năm 2024, 37 phần trăm doanh nghiệp FDI có kế hoạch mở rộng hoạt động, tăng từ 26 phần trăm năm 2023. Điều này báo hiệu sự lạc quan ngày càng tăng, mặc dù các kế hoạch mở rộng vẫn thấp hơn mức trước COVID-19, khi tỷ lệ này ở mức khoảng 50 phần trăm. Các nhà xuất khẩu cho thấy sự tự tin cao hơn một chút, với 43,6 phần trăm có kế hoạch mở rộng so với 35,5 phần trăm các doanh nghiệp không xuất khẩu.

Các kế hoạch đầu tư tăng đáng kể, với 40 phần trăm các công ty có kế hoạch tăng đầu tư, tăng từ mức 30,3 phần trăm vào năm 2023. Mặc dù vậy, xu hướng việc làm đã chuyển dịch sang các lĩnh vực thâm dụng vốn hơn, vì tỷ lệ các công ty bổ sung nhân viên giảm xuống còn 49,5 phần trăm, giảm so với mức 59,9 phần trăm vào năm 2023. Khả năng sinh lời được cải thiện đôi chút, với 48,7 phần trăm các công ty báo cáo có lãi, trong khi tỷ lệ các công ty thua lỗ giảm đáng kể xuống còn 22 phần trăm, giảm so với mức 42,3 phần trăm vào năm 2023.

Tuy nhiên, bất chấp xu hướng tích cực này, những bất ổn xung quanh tình hình kinh tế toàn cầu và chính sách thuế quan của Hoa Kỳ có thể làm giảm sự mở rộng trong tương lai.

Chuyển sang các ngành công nghiệp có giá trị cao hơn

Khảo sát PCI-FDI năm 2024 nhấn mạnh sự tập trung liên tục của các công ty có vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bán buôn và bán lẻ, nhấn mạnh vị thế của Việt Nam là trung tâm thương mại và phân phối khu vực. Lĩnh vực này vẫn là điểm thu hút chính đối với vốn nước ngoài, đặc biệt là từ các nhà đầu tư ở Thái Lan, Nhật Bản và Hàn Quốc, vì thị trường bán lẻ của Việt Nam dự kiến ​​sẽ đạt 350 tỷ đô la Mỹ vào năm 2025.

Dịch vụ chuyên nghiệp đã nổi lên như một ngành phổ biến thứ hai trong số các công ty nước ngoài, phản ánh sự chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức hơn và nhu cầu về dịch vụ tư vấn và tư vấn pháp lý ngày càng tăng. Công nghệ thông tin và truyền thông, cùng với sản xuất điện tử, tiếp tục là những ngành nổi bật, định vị Việt Nam là một trung tâm sản xuất công nghệ và điện tử đang phát triển bất chấp những thách thức đang diễn ra trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong khi đó, thị phần tương đối của các ngành sản xuất truyền thống như may mặc đã giảm nhẹ, báo hiệu sự chuyển dịch dần dần của Việt Nam sang các ngành công nghiệp có giá trị cao hơn trong bối cảnh động lực thị trường toàn cầu đang thay đổi.

Doanh số bán cho doanh nghiệp nhà nước tăng mạnh

Một sự thay đổi đáng chú ý vào năm 2024 là sự gia tăng doanh số bán cho các doanh nghiệp nhà nước (SOE) và các cơ quan chính phủ, trong đó các doanh nghiệp FDI bán cho các SOE tăng lên 18 phần trăm và các doanh nghiệp bán cho các cơ quan chính phủ đạt 13,7 phần trăm. Ngoài ra, 55 phần trăm các công ty báo cáo bán cho các công ty tư nhân Việt Nam, tỷ lệ cao nhất trong thập kỷ qua, trong khi tỷ lệ các công ty bán cho các cá nhân tư nhân Việt Nam tăng mạnh từ 23 phần trăm vào năm 2023 lên 38,6 phần trăm vào năm 2024.

Sự gia tăng này phản ánh mức tiêu dùng trong nước tăng lên và sự hội nhập mạnh mẽ hơn của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) vào nền kinh tế địa phương của Việt Nam. Ngược lại, tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) giảm xuống còn 36,5%, giảm so với mức 51,8% vào năm 2023, cho thấy sự chuyển hướng sang thị trường trong nước trong bối cảnh bất ổn thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, báo cáo lưu ý rằng có thể đây là một bất thường trong mẫu năm 2024 và cần tiến hành nghiên cứu trong tương lai để đánh giá liệu đây có phải là xu hướng dài hạn hay không.

Tuân thủ hành chính vẫn là mối quan tâm

Năm 2024, 49,2 phần trăm doanh nghiệp FDI báo cáo rằng ban quản lý cấp cao dành hơn năm phần trăm thời gian để giải quyết các thủ tục hành chính, giảm nhẹ so với mức 50,2 phần trăm năm 2023. Mặc dù đây là sự cải thiện đáng kể so với giai đoạn trước đại dịch khi con số này vượt quá 70 phần trăm, nhưng điều này cho thấy rằng việc tuân thủ hành chính vẫn tiếp tục là mối quan tâm đáng kể đối với nhiều công ty.

Trong khi đó, số lượng trung bình các cuộc thanh tra giảm xuống còn 0, mức thấp nhất được ghi nhận kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu, cho thấy một môi trường quản lý hợp lý hơn. Các trường hợp quấy rối – được định nghĩa là các công ty phải đối mặt với bốn hoặc nhiều cuộc thanh tra mỗi năm – cũng giảm mạnh xuống còn 3,1 phần trăm, giảm so với mức 6,6 phần trăm vào năm 2023. Tuy nhiên, số ngày trung bình để thông quan xuất khẩu tăng nhẹ lên hai ngày vào năm 2024, tăng so với một ngày vào năm 2023, cho thấy vẫn còn chỗ để cải thiện thủ tục hơn nữa.

Thủ tục thuế vẫn là mối quan tâm lớn

Thủ tục thuế nổi lên là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp FDI vào năm 2024, với 35% doanh nghiệp xác định các vấn đề liên quan đến thuế là rắc rối nhất, tăng đáng kể so với mức 16% vào năm 2023. Sự gia tăng này có thể phản ánh các cuộc thanh tra thuế tăng cường nhắm vào giá chuyển nhượng , đặc biệt là đối với các công ty báo cáo thua lỗ liên tiếp trong khi mở rộng đầu tư. Các cơ quan chức năng của Việt Nam cũng đang xem xét các cải cách pháp lý bổ sung để thắt chặt các quy định về giá chuyển nhượng.

Đẩy mạnh cải cách thể chế để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế

Báo cáo PCI năm 2024 nhấn mạnh nhu cầu can thiệp chính sách có mục tiêu để duy trì động lực kinh tế trong bối cảnh bất ổn thương mại toàn cầu và động lực kinh doanh đang thay đổi. Các khuyến nghị chính bao gồm đơn giản hóa thủ tục thuế và tuân thủ quy định để giảm gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp, một động thái được coi là cần thiết khi xét đến sự gia tăng trở lại của các khoản phí không chính thức và chi phí tuân thủ tăng cao.

Báo cáo cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường liên kết chuỗi cung ứng trong nước và đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là trong các vai trò kỹ thuật và giám sát, để hỗ trợ Việt Nam chuyển dịch sang các ngành công nghiệp có giá trị cao hơn. Ngoài ra, việc thúc đẩy đối thoại công-tư hiệu quả hơn và tăng cường thực thi chính sách ở cấp tỉnh là rất quan trọng để giải quyết những thách thức đang diễn ra trong việc tiếp cận đất đai và sự suy giảm năng động của chính phủ.

 

 

Chia sẻ bài viết

Có thể bạn quan tâm

Xem tất cả

Ngành gỗ Việt Nam năm 2025: Vượt qua thách thức và nắm bắt cơ hội mới

Ngành công nghiệp gỗ của Việt Nam là một thành phần quan trọng của nền kinh tế quốc gia, luôn được xếp hạng trong số các nước xuất khẩu hàng đầu. Ngành này đang phát triển, tập trung vào các hoạt động bền vững và các sản phẩm có giá trị gia tăng, đồng thời cũng giải quyết các thách thức như căng thẳng thương mại và thuế quan. Với cam kết về tính bền vững và năng lực ngày càng tăng, ngành công nghiệp gỗ của Việt Nam đang sẵn sàng cho sự tăng trưởng và đổi mới liên tục trong những năm tới.

Xem bài đăng

Bán hàng cho thị trường Việt Nam: Những câu hỏi thường gặp

Các doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập thị trường Việt Nam cần xây dựng chiến lược thâm nhập phù hợp với mục tiêu của mình và tận dụng ngành thương mại điện tử đang bùng nổ để thu hút hiệu quả người tiêu dùng am hiểu công nghệ của đất nước.

Xem bài đăng

Việt Nam hợp tác với Đức và Áo phát triển nông nghiệp và công nghệ

Việt Nam mở rộng quan hệ song phương với Đức và Áo thông qua các quan hệ đối tác mới trong nông nghiệp, đổi mới công nghệ và phát triển lực lượng lao động, mở ra cánh cửa cho thương mại và đầu tư chiến lược.

Xem bài đăng

Việt Nam bảo vệ sản xuất và xuất khẩu nông sản trong bối cảnh thương mại toàn cầu bất ổn

Thương mại toàn cầu năm 2024 vẫn là một bối cảnh phức tạp với đặc điểm là căng thẳng địa chính trị, áp lực lạm phát và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng. Trong bối cảnh bất ổn này, ngành nông nghiệp Việt Nam là trụ cột quan trọng của sự ổn định kinh tế. Bài viết này khám phá các phản ứng chính sách chiến lược của Việt Nam nhằm bảo vệ sản xuất nông nghiệp, hiệu suất xuất khẩu nông sản gần đây, lợi thế cạnh tranh của quốc gia và triển vọng mở rộng thương mại trong tương lai.

Xem bài đăng

Giấy chứng nhận xuất xứ tại Việt Nam: Hướng dẫn tóm tắt về đơn xin cấp C/O

Một thành phần quan trọng của thương mại quốc tế, Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) có tác dụng xác thực nguồn gốc hàng hóa, giúp các nhà xuất khẩu được hưởng lợi từ việc miễn thuế và tuân thủ các quy định hải quan. Hiểu rõ về ứng dụng C/O là điều cần thiết đối với các doanh nghiệp muốn tối ưu hóa hoạt động xuất khẩu của mình tại Việt Nam.

Xem bài đăng

Việt Nam tăng cường ưu đãi cho Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia: Ý nghĩa đối với cộng đồng doanh nghiệp và khởi nghiệp

Ngày 5 tháng 5 năm 2025, Việt Nam đã ban hành Nghị định số 97/2025/NĐ-CP (“Nghị định 97”), đưa ra các chính sách và cơ chế khuyến khích cho Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC). Các ưu đãi mới này được kỳ vọng sẽ tạo ra môi trường thuận lợi hơn để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong cộng đồng doanh nghiệp trong nước.

Xem bài đăng